Quẻ chỉ thời vận tốt, được mọi người yêu mến, nhất là người khác giới. Cần chú ý đề phòng tửu sắc, ăn nói quá đà sinh hỏng việc có cơ hội thành đạt, đường công danh gặp nhiều thuận lợi, dễ thăng quan tiến chức. Tài lộc dồi dào. Thi cử dễ đỗ. Bệnh tật do ăn uống sinh ra, dễ nặng. Kiện tụng nên tránh vì không hợp với quẻ này nên hòa giải thì hơn. Hôn nhân thuận lợi, tìm được vợ hiền. Gia đình vui vẻ. Lại sinh vào tháng 10 là đắc cách, dễ thành đạt đường công danh, tài lộc nhiều.
Quẻ Vị Tế chỉ thời vận không thuận lợi, không có thời cơ tốt mọi việc khó thành. Phải kiên nhẫn chờ thời cơ mới có cơ may. Công danh sự nghiệp dở dang; tài vận không có, buôn bán kinh doanh kém phát đạt. Tìm việc khó khăn. Thi cử lận đận. Kiện tụng dây dưa, nên hòa giải thì hơn. Bệnh tật không nặng nhưng kéo dài. Xuất hành không lợi. Tình yêu dang dở, khó thành. Hôn nhân tốn nhiều thời gian, phải kiên nhẫn mới thành. Người gặp quẻ này, sinh vào tháng bảy là cách dễ đạt công danh phú quý.

1) Toàn quẻ :
- Tốn là vào, nhân tình vật lý vào được với nhau thì sẽ ưa nhau. Cho nên sau quẻ Tốn tiếp đến quẻ
Đoài (hòa duyệt).
- Tượng hình bằng 2 quái Đoài, mỗi quái có 2 hào dương ở dưới và một hào âm ở trên, là cương ở
trong và nhu ở ngoài. Lấy cương cường và hòa nhã mà trị dân, làm gì dân chẳng theo? Thêm nữa,
phải hòa duyệt theo cách quân tử, chính đính, như Nhị, Ngũ.
- Lại tượng như hai đầm nước nương tựa vào nhau. Quân tử xem tượng ấy mà nghĩ rằng: khi hai bên
cùng duyệt lạc, thì không gì bằng bầu bạn giảng tập với nhau.
2) Từng hào :
Sơ Cửu : dương cương đắc chính, lại ở địa vị dưới, biết phận mình, không dám khoe tài, nên hòa duyệt được với người trên. Cát.
Cửu Nhị : dương cương đắc trung, ở dưới Lục Tam nhưng tự trọng, hòa với Tam mà vẫn chính đính, nên được hối vong.
Lục Tam : âm nhu, bất trung bất chính, lại ở giữa bốn dương, ví như gái bất chính ve vãn với nhiều trai.Hung.(Ví dụ : bọn hoạt đầu chính trị, đảng nào lên cầm quyền cũng nịnh bợ, xun xoe lập công).
Cửu Tứ : dương cương bất trung bất chính, ở giữa Lục Tam (tượng cho tiểu nhân hoặc tính xấu) và Cửu Ngũ (tượng cho quân tử hoặc nết hay), không biết lựa chọn đường nào. Chọn phe tiểu nhân đắc chí hay phe quân tử gian nan? Chọn những vui chơi trác táng hay giữ vững đạo tâm? Nếu Tứ biết chọn đường hay thì sẽ được vui mừng thực sự. ( Ví dụ Đường Minh Hoàng hayTrịnh Sâm đều là những bậc anh hùng, nhưng vì quá say đắm nữ sắc nên làm hỏng việc nước. Trái lại Tề Hoàn công cũng ham mê nữ sắc nhưng biết nghe lời hiền thần Quản Trọng nên vẫn giữ được ngôi bá chủ).
Cửu Ngũ : dương cương trung chính, vốn là bậc quân tử. Nhưng gần Thượng Lục là kẻ tiểu nhân, ở thời Đoài có thể bị Thượng rủ rê chơi bời mà đánh mất nết hay của mình. (ví dụ Hậu chủ bị Hoàng Hạo rủ rê, trở thành hôn quân).
Thượng Lục : duyệt đã cùng cực rồi còn kéo dài ra, rõ là kẻ tiểu nhân vô sỉ, cố duyệt lòng người bằng những phương cách ti tiện. (Ví dụ một số quan lại dưới thời Pháp thuộc, ti tiện đến nỗi dâng vợ đẹp cho công sứ hay thống sứ).
B - Nhận Xét Bổ Túc.
1) Ý nghĩa quẻ Đoài :
Tượng quẻ là hai đầm nước nương tựa nhau, đã mát mẻ còn thêm mát mẻ, gợi ý sự hòa duyệt chung sống với nhau. Quẻ này ý nghĩa cũng gần tương tự như quẻ Tốn, cả hai cùng có mục đích giao hảo với đối thủ. Nhưng hơi khác ở đường lối để đạt tới mục đích. ở Tốn thì chú trọng đến sự khiêm nhường của người trên hoặc người có tài. ở Đoài thì chú trọng đến sự lấy lòng đối thủ bằng mọi phương tiện khác như tiệc tùng, tiền bạc, mỹ sắc, v . v .
Nghĩa là quẻ Đoài trả lời câu hỏi: nên hòa duyệt như thế nào cho chính đính, khi hoàn cảnh bảo ta nên hòa duyệt với đối thủ?
2) Bài học :
Sự phân tích các hào như đã trình bầy ở trên đã cho ta giải đáp rồi: trong cương ngoài nhu, tức là tâm ý chính đính và bộ mặt hòa nhã.
Muốn cho rõ nghĩa thêm, xin lấy một tỷ dụ điển hình: một chính quyền muốn lấy lòng dân:
- Bằng cách mị dân như Thượng Lục, khiến dân chúng khinh lờn, trật tự xã hội sẽ bị rối loạn.
- Bằng cách mua chuộc phái nọ đảng kia như Lục Tam, nhưng không thật tình nên sẽ uổng công.
- Cách hay nhất là giữ chính đạo, cương quyết bảo vệ trật tự xã hội, và đồng thời khoan hòa với
dân chúng, cho dân được hưởng những tự do cần thiết như tín ngưỡng, đi lại, quyền tư hữu tài sản, v . v .ĐOÀI QUÁI: thuộc Kim, gồm có 8 quái là:
Thuần Đoài - Trạch Thủy Khổn - Trạch Địa Tụy - Trạch Sơn Hàm - Thủy Sơn Kiển - Địa Sơn Khiêm - Lôi Sơn Tiểu Quá - Lôi Trạch Quy Muội.
Thiên Thời: Mưa dầm - Trăng mới - Sao.
Địa lý: Đầm ao - Chỗ ngập nước - Ao khuyết (dở hư) - Giếng bỏ hoang - Chỗ núi lỡ, gò sụt - Chỗ đất nước mặn không có cây cối.
Nhân vật: Thiếu nữ - Vợ hầu - Con hát - Người tay sai - Dịch nhân (người diễn dịch) - Thầy đồng bóng (phù thủy).
Nhân sự: Vui mừng - Khẩu thiệt - Dèm pha - Phỉ báng - Ăn uống.
Thân thể: Lưỡi - Miệng - Phổi - Đờm - Nước dãi.
Thời tự: Mùa Thu, tháng 8 - Năm, tháng, ngày, giờ Dậu - Năm, tháng, ngày, giờ thuộc Kim - Tháng, ngày số 2, 4, 9.
Động vật: Dê - Vật ở trong ao, hồ, đầm.
Tịnh vật: Kim, gai bằng vàng - Loài thuộc Kim - Nhạc khí - Đồ sứt mẻ - Vật vất bỏ, phế thải.
Ốc xá: Ở về hướng Tây - Ở gần ao hồ - Nhà vách tường đổ nát. Cửa hư hỏng.
Gia trạch: Chẳng yên - Phòng khẩu thiệt - Mùa Thu chiêm đẹp đẽ - Mùa hạ chiêm gia trạch hữu họa.
Hôn nhân: Chẳng thành - Mùa Thu chiêm khá thành - Có việc mừng - Thành hôn cát - Lợi gá hôn với thiếu nữ - Mùa Hạ chiêm bất lợi.
Ẩm thực: Thịt dê - Vật ở trong ao hồ - Thức ăn cách đêm - Vị cay nồng.
Sinh sản: Bất lợi - Phòng có tổn hại - Hoặc sinh nữ - Mùa Hạ chiêm bất lợi - Lâm sản nên hướng Tây.
Cầu danh: Nan thành - Vì có danh mà có hại - Lợi nhậm chức về hướng Tây - Nên quan về việc Hình - Võ chức - Chức quan coi về việc hát xướng - Quan phiên dịch.
Mưu vọng: Nan thành - Mưu sự có tổn - Mùa Thu chiêm có sự vui - Mùa Hạ chiêm chẳng vừa lòng.
Giao dịch: Bất lợi - Phòng khẩu thiệt - Có sự cạnh tranh - Mùa Hạ chiêm bất lợi - Mùa Thu chiêm có tài có lợi trong giao dịch.
Cầu lợi: Đã không có lợi mà có tổn - Khẩu thiệt - Mùa Thu chiêm có tài lời - Mùa Hạ chiêm phá tài.
Xuất hành: Chẳng nên đi xa - Phòng khẩu thiệt - Bị tổn thất - Nên đi về hướng Tây - Mùa Thu chiêm nên đi vì có lợi.
Yết kiến: Đi hướng Tây thì gặp - Bị nguyền rủa rầm rĩ.
Tật bệnh: Tật yết hầu, khẩu thiệt - Tật suyễn nghịch khí - Ăn uống chẳng đều.
Quan tụng: Tranh tụng không ngớt - Khúc trực chưa quyết - Vì việc tụng mà tổn hại - Phòng hình sự - Mùa Thu chiêm mà được Đoài là thể thì ắt đắc thắng.
Phần mộ: Nên hướng Tây - Phòng trong huyệt có nước - Mộ gần ao hồ - Mùa Hạ chiêm chẳng nên - Chôn vào chỗ huyệt cũ bỏ hoang.
Phương đạo: Hướng Tây.
Ngũ sắc: Trắng.
Tính tự (Họ, Tên): Tiếng thương (ngũ âm) - Người có họ hay tên đeo chữ Kim hay chữ Khẩu ở một bên - Hàng vị 2, 4, 9.
Số mục: 2, 4, 9.
Ngũ vị:Cay nồng.
Phần Bát Quái Vạn Vật kể trên, sự việc còn rất nhiều chẳng chỉ có như vậy mà thôi. Vậy phép chiêm, nên noi theo sự việc mà suy từng loại vậy.

1) Toàn quẻ :
- Vật lý không thể nào tồn tại mãi được, nên tiếp sau quẻ Ký-Tế (đã làm được) là quẻ Vị-Tế (chưa làm được).
- Tượng hình bằng trên Li dưới Khảm, trái ngược với quẻ Ký-Tế. ở đây lửa đặt trên nước, thủy hỏa bất giao, việc không thành. Thêm nữa, cả 6 hào đều bất chính, hoặc dương hào cư âm vị, hoặc âm hào cư dương vị. Tuy nhiên, cương nhu vẫn ứng chính, có thể làm được công việc Tế. Tuy hiện tại là Vị-Tế, nhưng tương lai có thể hanh.
2) Từng hào :
Sơ Lục : âm nhu, không đủ tài tế hiểm, lại bước chân vào Khảm hiểm, không tự lượng, lẫn. (ví dụ Lê Anh Tông vô quyền, đòi chống lại Trịnh Tùng, bị giết).
Cửu Nhị : dương cương, muốn mạnh mẽ đưa Lục Ngũ qua khỏi thời Vị-Tế, e rằng sẽ không khỏi sinh mối nghi kỵ. Tốt hơn là Nhị nên thận trọng, mới được, Cát. (ví dụ Hàn Tín có đại tài, nhưng không chịu giữ gìn, khoe khoang ham tước lộc, nên bị hại. Trái lại Trương Lương làm thầy đế vương, lập kỳ mưu, nhưng nhũn nhặn, nên được toàn thân danh).
Lục Tam : bất trung bất chính, vô tài. Nếu hành động sẽ gặp hung. Nhưng đã tới thời Vị-Tế, nếu được Thượng Cửu giúp đỡ cho, thì có thể qua được chỗ nguy.
Cửu Tứ : dương cương, lại đã lên thượng quái, trên có Lục Ngũ vua tôi tương đắc, có thể được Cát. Nhưng Tứ bất trung bất chính, nên có lời răn: Phải cố giữ trinh chính thì mới được Cát, nếu cậy tài ỷ thế thì hỏng. (Ví dụ ĐổngTrác sau khi dẹp xong loạn Thường Thị, được vua cho làm thái sư, lộng quyền, nên bị hung).
Lục Ngũ : làm chủ thượng quái Li (sáng sủa), thời vị-Tế đã đến lúc gần hết. Lại được Nhị và Tứ giúp cho, Cát. (ví dụ sau khi Vương Mãng chiếm ngôi nhà Hán, một hoàng thân phất cờ khởi nghĩa, được dân tin theo, giết Vương Mãng, và được tôn lên làm vua Quang vũ).
Thượng Cửu : ở thời Vị-Tế, có thể hiểu theo 2 nghĩa. Một là thời Vị-Tế tột độ, thì hung. Hai là thời Vị-Tế đến lúc tàn, thì là tốt, vô cự. Nhưng tùy thời cơ biến chuyển là một việc, cái chính là tùy người. Nếu thượng có lòng thành tín, tu dưỡng đạo đức của mình, thì dù thời Vị-Tế cực độ cũng được vô cựu. Trái lại, nếu Thượng buông lung, thì dù thời Vị-Tế chấm dứt, vẫn bị nguy.
B - Nhận Xét Bổ Túc.
1) Ý nghĩa quẻ Vị-Tế :
Tượng quẻ là để thùng nước dưới lửa, làm sao chín được đồ ăn? Có nghĩa là chưa làm được, trái lại với quẻ Ký-Tế là đã làm được. Tại sao? Vì các hào của quẻ Vị-Tế đều bất chính, âm hào cư dương vị, hoặc ngược lại. Tuy vậy, chúng vẫn ứng chính với nhau. Hơn nữa, quẻ này có hạ quái là Khảm và thượng quái là Li, có nghĩa rằng thời Vị-Tế bắt đầu trong hung hiểm nhưng sẽ kết thúc trong sáng sủa.
Nói tóm lại, hai quẻ Ký-Tế và Vị-Tế diễn tả một tình trạng tương đương với hai quẻ Thái và Bĩ, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp hơn.
2) Bài học :
Trong giai đoạn đầu của thời Vị-Tế, là nguy hiểm, tốt nhất là giữ mình cho khỏi sa vào hiểm.
Bởi vậy:
- Những kẻ âm nhu như Sơ Lục và Lục Tam, không có tài tế hiểm, nên ẩn thân chớ hoạt động mà mang họa;
- Cửu Nhị có tài tế hiểm, nhưng vì còn ở hạ quái Khảm, e sẽ mang họa, nên cẩn thận giữ mình là hơn, tránh mọi hiềm nghi;
Trong giai đoạn cuối của thời Vị-Tế, đã sáng sủa hơn, có thể tế hiểm được, nhưng cũng phải cẩn thận mềm mỏng:
- Cửu Tứ và Thượng Cửu cương cường, nếu biết cư xử mềm mỏng, sẽ thành công.
- Lục Ngũ vốn mềm mỏng khoan dung, sẽ thành công trong việc tế hiểm.
3) Kết luận.
Chúng ta còn có thể nhận định thêm rằng cổ thánh hiền đã đặt quẻ Vị-Tế vào cuối 64 quẻ, là có thâm ý nhắc nhở hậu thế rằng: Vị-Tế là chưa xong, việc đời chẳng bao giờ xong vĩnh viễn; thịnh, suy, trị, loạn, chẳng có cái gì bền mãi được, tất cả chỉ là những giai đoạn tạm thời, thay đổi lẫn nhau, mãi mãi, vô cùng tận. Đó là điểm chính trong tư tưởng Dịch.
LY QUÁI: thuộc Hỏa, gồm có 8 quái là:
Thuần Ly - Hỏa Sơn Lữ - Hỏa Phong Đỉnh - Hỏa Thủy Vị Tế - Sơn Thủy Mông - Phong Thủy Hoán - Thiên Thủy Tụng - Thiên Hỏa Đồng Nhân.
Thiên Thời: Mặt trời - Chớp - Cầu vồng - Cái mống - Cái ráng.
Địa lý: Phương Nam - Chỗ đất cao ráo - Lò bếp - Lò xưởng đúc - Chỗ đất khô khan cằn cỗi - Chỗ đất hướng mặt về Nam.
Nhân vật: Trung nữ - Văn nhân - Người có cái bụng to - Người có tật mắt - Kẻ sĩ trong hàng áo mũ.
Nhân sự: Chỗ hoạch định văn thơ văn hóa - Thông minh tài giỏi - Gặp nhau mà không đạt được gì hết - Về việc thư từ giấy má.
Thân thể: Con mắt - Tâm - Thượng tiêu.
Thời tự: Mùa Hạ, tháng 5 - Năm, tháng, ngày, giờ Ngọ hay thuộc Hỏa - Ngày 2, 3, 7.
Động vật: Chim trĩ - Rùa - Con ba ba - Cua - Ốc - Trai.
Tịnh vật: Lửa - Thơ - Văn - Áo giáp mũ sắt - Binh khí - Áo khô - Vật khô khan - Vật sắc đỏ.
Ốc xá: Nhà ở về hướng Nam - Nhà ở chỗ sáng sủa khoảng khoát - Cửa sổ sáng sủa - Nhà trống hoặc hư hao.
Gia trạch: Yên ổn - Vui vẻ - Mùa Đông chiêm không được yên - quẻ khắc Thể, chủ hóa tài.
Hôn nhân: Bất thành - Lợi gá hôn với trung nữ - Mùa Hạ chiêm khá thành - Mùa Đông chiêm bất lợi.
Ẩm thực: Thịt chim trĩ - Đố ăn nấu - xắc hay rang - Đồ ăn thiêu, nướng - Vật ăn đồ khô, thịt khô các loại - Thịt nóng.
Sinh sản: Dễ sinh - Sinh con gái thứ - Mùa Đông chiêm có tổn - Lâm sản nên hướng Nam.
Cầu danh: Đắc danh - Nên giữ chức về hướng Nam - Nhậm chức văn quan - Nên giữ chức về việc xưởng trường, lò đúc.
Mưu vọng: Mưu vọng khá thành - Nên có văn thơ trong sự mưu vọng.
Giao dịch: Khá được - Nên giao dịch có văn thơ.
Cầu lợi: Có tài - Nên cầu về hướng Nam - Có tài về văn thơ - Mùa Đông chiêm thì thất bại.
Xuất hành: Nên đi - Nên hoạt động hướng Nam - Đi về việc văn thơ thì thành tựu - Mùa Đông chiêm không nên đi - Chẳng nên đi bằng thuyền đò.
Yết kiến: Gặp được người ở hướng Nam - Mùa Đông chiêm không được thuận lợi - Mùa Thu thấy văn thơ khảo sát tài sĩ.
Tật bệnh: Tật mắt - Tật tâm - Thượng tiêu - Binh nóng sốt - Mùa Hạ chiêm bị trúng nắng - Bịnh truyền nhiễm lưu hành một thời.
Quan tụng: Để tán - Động văn thơ - Minh biện án từ.
Phần mộ: Mộ ở hướng Nam - Chỗ trống trải không có cây cối gì - Mùa Hạ chiêm xuất văn nhân - Mùa Đông chiêm không lợi.
Phương đạo: Hướng Nam.
Ngũ sắc: Đỏ - Tía - Hồng.
Tính tự (Họ, Tên): Tiếng chủy (ngũ âm) - Người có tên hay họ có bộ Nhân đứng một bên - Hàng vị 3, 2, 7.
Số mục: 3, 2, 7.
Ngũ vị: Đắng.
Phần Bát Quái Vạn Vật kể trên, sự việc còn rất nhiều chẳng chỉ có như vậy mà thôi. Vậy phép chiêm, nên noi theo sự việc mà suy từng loại vậy.